Bệnh viêm tai giữa (VTG) là một bệnh lý Tai – Mũi – Họng (TMH) thường gặp ở trẻ em. Ước tính có khoảng 5% dân số Việt Nam bị viêm tai giữa các lọai có nguyên nhân chủ yếu là do bệnh ở mũi họng. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị tốt, có thể ảnh hưởng sức nghe, dẫn đến viêm tai xương chũm và nhiều biến chứng nguy hiểm tính mạng.
Viêm tai giữa là gì?
Viêm
tai giữa là tình trạng viêm của niêm mạc tai giữa, thường là viêm cấp do nhiễm
trùng hô hấp trên hoặc ứ đọng dịch trong hòm nhĩ.
Do
vòi nhĩ nằm ngang và ngắn hơn ở người lớn nên vi trùng và các chất xuất tiết ở
mũi họng rất dễ lan lên tai giữa .
Khi
em bé nằm ngửa thì tai sẽ ở vị trí thấp hơn mũi họng, khi ọc sữa hay em bé
khóc, vòi nhĩ sẽ mở rộng thêm làm cho các chất xuất tiết ở mũi họng theo đó chảy
vào hòm nhĩ.
Hệ
thống niêm mạc đường hô hấp ở trẻ em rất nhạy cảm, dễ phản ứng với những kích
thích hóa, lý và cơ học bằng hiện tượng xuất tiết dịch, làm cho dịch ứ đọng nhiều
trong hòm nhĩ gây VTG.
Viêm tai giữa cấp: Có 2 loại thường gặp là:
Viêm tai giữa cấp xuất tiết dịch thấm: (viêm tai giữa thanh dịch)
Viêm
tai giữa xuất tiết dịch thấm có đặc điểm là màng nhĩ bị sung huyết, trong hòm
nhĩ có dịch thấm.
Nguyên nhân
-
Do viêm mũi họng, viêm V.A, u vòm mũi họng, phù nề làm tắc vòi nhĩ
-
Do mất thăng bằng áp lực không khí tai giữa (thường gặp ở phi công, thợ lặn)
-
Do cơ địa dị ứng gây dãn mao mạch gây ứ dịch tai giữa.
Triệu chứng: Viêm tai giữa tiết dịch diễn tiến âm thầm.
-
Trẻ nhỏ thường biểu hiện chậm phát triển lời nói, ngôn ngữ.
-
Trẻ lớn thường than phiền cảm giác đầy tai, ù tai, nghe kém dần. Khi nội soi có
thể thấy mức nước hơi trong tai giữa. Màng nhĩ lõm vào trong
Điều trị
-
Thông vòi nhĩ
-
Kháng Histamin, chống xuất tiết
-
Giải quyết nguyên nhân khối u vòm mũi họng (nạo VA)
-
Nên nuốt nước bọt hoặc làm nghiệm pháp Valsava khi bắt đầu có triệu chứng lung
bùng nghe kém ở tai.
VTG cấp mủ do vi khuẩn
Nguyên
nhân
-
Do viêm mũi họng: Viêm amidan, viêm V.A., viêm xoang…
-
Sau bệnh nhiễm trùng lây: như cúm, sởi…
-
Chấn thương: do áp lực, do hỏa khí gây thủng màng nhĩ…
-
Nguyên nhân khác: Xì mũi không đúng cách, do khối u ở vòm mũi họng, làm tắc vòi
nhĩ,..
Triệu
chứng lâm sàng
Gồm
hai giai đoạn:
*
Giai đoạn đầu: Triệu chứng chủ yếu là viêm mũi họng:
-
Sốt
-
Đau rát họng
-
Chảy mũi, ngạt mũi, ho,..
-
Có thể đau tai, ù tai..Khi nội soi thấy màng nhĩ sung huyết.
*
Giai đoạn toàn phát: 2 thời kỳ
Thời
kỳ chưa vỡ mủ: Diễn tiến rầm rộ, rõ rệt
-
Trẻ sốt, thường là sốt cao 39-40oC, quấy khóc nhiều, bỏ bú, kém ăn, nôn trớ, co
giật...
-
Nếu là trẻ lớn, sẽ kêu đau tai, còn trẻ nhỏ chỉ biết lắc đầu, lấy tay dụi vào
tai.
Khi
nội soi tai thấy:
-
Toàn bộ màng nhĩ nề đỏ, hơi tím, phồng lên, không thấy tam giác sáng, không thấy
cán xương búa hoặc mấu ngắn xương búa
-
Màu sắc màng nhĩ hòa lẫn màu sắc da ống tai
Thời
kỳ vỡ mủ: Có thể do chích rạch hay tự vỡ mủ.
-
Trẻ không còn đau tai
-
Nhiệt độ trở lại bình thường, trẻ ăn ngủ được.
-
Nếu màng nhĩ tự vỡ vào ngày thứ 2,4 thì sự lành màng nhĩ sẽ không tốt. Cần chủ
động rạch thoát mủ.
Khi
nội soi tai thấy:
-
Ống tai đầy mủ, màu vàng hoặc xanh thấy lỗ thủng, bề dày đỏ, nham nhở, kích thước
lỗ thủng to, nhỏ.
-
Nếu lỗ thủng nhỏ dẫn lưu kém triệu chứng có thể còn tồn tại, cần chích rộng
thêm.
-
Hút rữa tai làm sạch mủ
Chẩn
đoán
Hiện
nay nội soi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán viêm tai giữa
Biến
chứng
Nếu
không được điều trị và theo dõi tốt có thể đưa đến biến chứng:
-
Viêm tai xương chũm cấp
-
Viêm tai giữa mạn tính mủ
-
Các biến chứng nội sọ nguy hiểm như: Viêm màng não, viêm tĩnh mạch bên, áp xe đại
hoặc tiểu não, liệt dây VII…
Điều
trị:
-
Các kháng sinh thường được sử dụng trong viêm tai giữa cấp là: Augmentin 50mg –
80mg/kg, Zinnat, Azithromycin,…
-
Kết hợp với các thuốc: Kháng viêm, giảm đau, loãng nhầy, hút rữa mũi,…
Diễn
tiến
Tùy
theo trường hợp mà bé có thể khỏi bệnh nhanh hay chậm. Phát đồ điều trị có thể
kéo dài 3 tuần
Trường
hợp đáp ứng thuốc kém hay kèm theo biến chứng thì đặt ống thông khí hòm nhĩ
Tóm lại
VTG
cấp mủ và VTG thanh dịch là bệnh tai thường gặp ở trẻ em sau nhiễm khuẩn hô hấp
trên cấp. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị, bệnh sẽ chuyển sang giai đọan
mạn tính dẫn đến hậu quả hoặc di chứng làm ảnh hưởng đến khả năng và giao tiếp
của trẻ. Vì vậy chúng ta nên đưa trẻ đến khám chuyên khoa điều trị triệt để và
tránh được các biến chứng.